Ngày 23/4/2022, tại Khu du lịch Ao Vua, Ba Vì, Hà Nội, Hội thảo khoa học về “Bảo tồn, phát triển và sử dụng nguồn dược liệu vì sức khỏe cộng đồng” được Hội Giáo dục chăm sóc sức khỏe cộng đồng Việt Nam phối hợp với Công ty Cổ phần Ao Vua tổ chức. Tham dự có ông Nguyễn Hồng Quân, Nguyên Uỷ viên Ban chấp hành trung ương Đảng, Nguyên Bộ Trưởng Bộ Xây dựng, Chủ tịch Hội Giáo dục chăm sóc sức khỏe cộng đồng Việt Nam; ông Nguyễn Thế Thịnh, cục trưởng cục quản lý y dược cổ truyền, bộ Y tế cùng lãnh đạo các Bộ, Ban Ngành Trung ương và địa phương, các diễn giả, các nhà khoa học cùng doanh nghiệp.
Các báo cáo tại hội thảo đã tập trung vào đánh giá tiềm năng của hệ sinh thái dược liệu của Việt Nam với trên 5000 loài có khả nẳng khai thác làm thuốc. Những kết quả trong điều tra, quy hoạch, khai thác và bảo tồn nguồn tài nguyên dược liệu của Việt Nam, đồng thời những khó khăn và kiến nghị đã được các nhà khoa học, chuyên gia, doanh nghiệp nhà quản lý đưa ra thảo luận và đề xuất với các cơ quan quản lý nhà nước để cùng phối hợp trong quá trình khai thác, bảo tồn và phát triển dược liệu Việt Nam.
Viện nghiên cứu và phát triển sản phẩm thiên nhiên (IRDOP) đã tham dự và có báo cáo với tiêu đề “khoa học công nghệ trong phát triển dược liệu Việt Nam” do PGS.TS. Trần Thị Oanh, chủ tịch hội đồng viện trình bày Báo cáo của viện IRDOP đã nêu ra vai trò của khoa học công nghệ trong toàn bộ chuỗi giá trị của dược liệu bao gồm từ quá trình xác định, bảo tồn nguồn gen, nhân giống, trồng, chăm sóc, bảo quản, chế biến, chiết xuất, xác định thành phần hóa học, đánh giá tác dụng sinh học, bào chế các sản phẩm và đánh giá chất lượng các sản phẩm từ dược liệu. Đồng thời các vấn đề, hạn chế về khoa học công nghệ mà ngành dược liệu nước nhà đang phải đối mặt trong quá trình phát triển.
Là một đơn vị đã và đang triển khai nhiều nghiên cứu khoa học trên đối tượng dược liệu Việt Nam, viện IRDOP sẽ tiếp tục mang những tri thức khoa học công nghệ vào quá trình bảo tồn, khai thác và phát triển dược liệu vì sức khỏe cộng đồng.
Một số hình ảnh tại hội thảo.

Hình 1. Các đại biểu tham dự hội thảo

Hình 2. Đoàn đại biểu viện IRDOP tham dự hội thảo



Hình 3. PGS.TS. Trần Thị Oanh, chủ tịch hội đồng viện, báo cáo tại hội thảo
Toàn văn báo cáo của viện IRDOP đăng trên kỷ yếu hội thảo.
1. Đặt vấn đề
Việt Nam là đất nước có hệ thực vật phong phú và đa dạng. Trong đó, đã xác định được trên 5000 loài thực vật và nấm có công dụng làm thuốc. Đây là một kho tàng quý báu để triển khai các nghiên cứu nhằm tạo ra các sản phẩm dược liệu phục vụ công tác chăm sóc sức khỏe người dân và phát triển xã hội. Trong xu thế hiện nay, con người đang ưu tiên sử dụng các sản phẩm từ thiên nhiên, đặc biệt là những thuốc có nguồn gốc dược liệu. Thống kê cho thấy, hiện nay, Việt Nam có thị trường tiêu thụ dược liệu và các sản phẩm từ dược liệu rất lớn với khoảng 400 cơ sở sản xuất thuốc từ dược liệu đăng ký hộ kinh doanh, khoảng 100 doanh nghiệp có sản xuất thuốc từ dược liệu. Điều đó cho thấy thị trường dược liệu của nước ta là rất tiềm năng.
Khoa học công nghệ được coi là yếu tố then chốt trong quá trình phát triển dược liệu từ quá trình xác định, bảo tồn và khai thác nguồn gen các loài dược liệu quý đến quá trình trồng, thu hái, chế biến và phát triển các sản phẩm thuốc từ dược liệu. Từ xa xưa, tri thức khoa học công nghệ đã được ông cha ta nghiên cứu và ứng dụng trong các bài thuốc dân gian của các lương y như Chu Văn An, Tuệ Tĩnh, Hải Thượng Lãn Ông. Các tri thức từ bao đời cha ông truyền miệng lại được dần dần đúc kết thành hệ thống gắn liền với thực tiễn và ghi thành tài liệu sử dụng trong đào tạo tại các trường đại học: “Nam dược thần hiệu” có 580 vị thuốc, 3873 bài thuốc chữa 182 chứng bệnh thuộc 10 khoa lâm sàng; “Cây thuốc Việt Nam” của Lê Trần Đức; “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” của Đỗ Tất Lợi; “Từ điển cây thuốc” của Võ Văn Chi, “Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam do nhóm tác giả Viện Dược liệu biên soạn.
Sự phát triển của phương pháp luận khoa học cùng với sự ra đời của nhiều công nghệ mới đã giúp con người làm sáng tỏ và phát triển các kinh nghiệm dân gian trong các bài thuốc y học cổ truyền. Khoa học công nghệ đã giúp con người hiểu rõ hơn về thành phần hóa học các dược chất trong dược liệu, cơ chế tác dụng, sinh khả dụng, độc tính và tương tác giữa các dược chất với cơ thể con người. Các công nghệ mới như công nghệ sinh học được áp dụng trong việc xác định, bảo tồn nguồn gen dược liệu; công nghệ trồng trọt, thu hái và sơ chế dược liệu; công nghệ chiết xuất và tinh chế dược liệu; công nghệ ứng dụng trong đánh giá chất lượng, chuẩn hóa dược liệu và dược chất; công nghệ bào chế các sản phẩm từ dược liệu với những tính năng và tác dụng y học nổi trội như công nghệ nano, công nghệ bào chế thuốc hướng đích…
Để ứng dụng hiệu quả khoa học công nghệ vào phát triển dược liệu đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ của các thành phần tham gia vào quá trình phát triển dược liệu bao gồm hệ thống văn bản, chính sách từ trung ương, các bộ ngành đến các địa phương; việc cụ thể hóa các văn bản pháp lý thông qua triển khai các chương trình khoa học công nghệ; sự tham gia của các doanh nghiệp, người nông dân, các nhà khoa học để nghiên cứu, ứng dụng tri thức khoa học công nghệ vào quá trình phát triển dược liệu Việt Nam.
2. Hệ thống văn bản quản lý nhà nước về phát triển dược liệu
Chính sách từ trung ương đến địa phương có vai trò quan trọng, định hướng, tạo hành lang và dẫn dắt quá trình nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ vào phát triển dược liệu. Một số văn bản chính sách quan trọng bao gồm.
Quyết định số 1976/QĐ-TTg ngày 30/10/2013 của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển dược liệu đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030. Quy hoạch này tập chung vào các mục tiêu như: bảo tồn và khai thác dược liệu tự nhiên thông qua quy hoạch 8 vùng dược liệu tự nhiên, xây dựng vườn bảo tồn và phát triển cây thuốc quốc gia đại diện cho các vùng sinh thái, bảo tồn, bảo hộ nguồn gen; phát triển trồng cây dược liệu phù hợp với từng vùng sinh thái góp phần từng bước đáp ứng được nhu cầu dược liệu trong nước; phát triển nguồn giống dược liệu thông qua phục tráng, tuyển trọn, di thực, thuần hóa các giống dược liệu bản địa có đặc tính tốt, phù hợp với từng vùng sinh thái.
Quyết định 1671/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 28/9/2015 phê duyệt Chương trình bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Nội dung của Chương trình là ứng dụng khoa học và công nghệ hiện đại, kết hợp với tri thức truyền thống để bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn gen. Bảo tồn kết hợp sử dụng bền vững nguồn gen góp phần bảo tồn đa dạng sinh học và bảo vệ thiên nhiên môi trường. Tư liệu hóa nguồn gen đã đánh giá để xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quỹ gen quốc gia.
Quyết định 376/QĐ-TTg ngày 17/3/2021 của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt Chương trình phát triển công nghiệp dược, dược liệu sản xuất trong nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Trong chương trình này, nhà nước sẽ ưu tiên đầu tư cho nghiên cứu khoa học, sản xuất thuốc mới, thuốc từ dược liệu chất lượng cao, mang thương hiệu quốc gia. Khuyến khích đầu tư, huy động các nguồn lực để phát triển côn nghiệp dược, sản xuất nguyên liệu làm thuốc trong nước.
Quyết định 179/QĐ-BYT ngày 20/1/2015 của bộ y tế về việc ban hành “kế hoạch triển khai thực hiện quyết định số 1976/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển dược liệu đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 của ngành y tế. Quyết định này xây dựng kế hoạch về chính sách, tăng cường nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ, truyền thông, quảng bá, xây dựng các đề án, dự án, các cơ sở sản xuất, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương để phát triển dược liệu Việt Nam.
Quyết định số 3657/QĐ-BYT ngày 20/8/2019 ban hành Danh mục 100 dược liệu có giá trị y tế và kinh tế cao để tập trung phát triển giai đoạn 2020-2030 để hướng dẫn các bộ ngành địa phương lựa chọn các loại dược liệu có giá trị để bảo tồn, khai thác và phát triển.
Ngoài ra, các bộ như bộ Khoa học và công nghệ, bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, bộ Công thương và các địa phương đã xây dựng nhiều văn bản hướng dẫn xây dựng các chương trình, đề án, dự án nghiên cứu, bảo tồn, trồng, bảo quản chế biến dược liệu và bào chế các sản phẩm từ dược liệu.
3. Kết quả ứng dụng khoa học công nghệ trong phát triển dược liệu
3.1. Kết quả ứng dụng khoa học công nghệ trong bảo tồn và khai thác nguồn gen dược liệu
Theo số liệu của Viện Dược liệu trong giai đoạn 2011 đến 2016, công tác bảo tồn nguồn gen dược liệu đã Điều tra, thu thập bổ sung được 279 nguồn gen thuộc 167 loài đưa về trồng bảo tồn tại các vườn bảo tồn trong hệ thống có điều kiện tự nhiên phù hợp. Trong đó, thu thập được một số loài theo tập đoàn phục vụ công tác chọn, tạo giống. Đánh giá, kiểm kê và chỉnh lý tên khoa học của các nguồn gen trong toàn hệ thống. Triển khai lưu giữ và bảo tồn được 1531 nguồn gen thuộc 884 loài tại 8 vườn cây thuốc trên toàn hệ thống, trong đó mạng lưới bảo tồn trực thuộc Viện Dược liệu lưu giữ 1168 nguồn gen thuộc 760 loài. Lưu giữ 443 mẫu hạt của 205 loài cây thuốc trong kho lạnh. Nghiên cứu bảo tồn in vitro 15 loài cây thuốc thuộc diện quý hiếm có nguy cơ bị tuyệt chủng và các nguồn gen có năng suất và chất lượng cao. Xây dựng 659 phiếu đánh giá ban đầu, 417 phiếu đánh giá chi tiết, 41 phiếu đánh giá cây thuốc có nguy cơ bị tuyệt chủng, bổ sung 1403 ảnh màu và hoàn thiện lý lịch giống cho 55 loài bảo tồn trọng tâm. Thống kê của Viện Dược liệu cho thấy, đến năm 2015, cả nước phát hiện 5117 loài thuộc 1823 chi, 360 họ của 8 ngành thực vật có công dụng làm thuốc. Trong số này, thực vật bậc cao chiếm 5084 loài, trong đó số loài mọc tự nhiên là 4524 loài, cây thuốc được trồng là 521 loài.
Tính đến năm 2016, hệ thống mạng lưới bảo tồn nguồn gen cây thuốc Việt Nam gồm 7 vườn tại các khu vực sinh thái khác nhau bao gồm: Vùng đồng bằng sông Hồng tại Hà Nội; Vùng Trung du phía bắc tại Vĩnh Phúc; Vùng núi cao phía bắc tại Lào Cai; Vùng Bắc trung bộ tại Thanh Hóa; Vùng Đông nam bộ tại Thành phố Hồ Chí Minh; Vùng Tây nguyên tại Lâm Đồng; Vùng Duyên hải nam trung bộ tại Phú Yên.
3.2. Kết quả ứng dụng khoa học công nghệ trong trồng, chế biến và chiết xuất dược liệu
Căn cứ vào thông tư 14/2009/TT-BYT ngày 03/9/2009 về hướng dẫn triển khai áp dụng các nguyên tắc, tiêu chuẩn thực hành tốt trồng trọt và thu hái cây thuốc theo khuyến cáo của tổ chức Y tế thế giới (GACP-WHO), nhiều mô hình ứng dụng khoa học công nghệ